TRÀM TA (TRÀM NƯỚC)

 

TRÀM 

I.              Thông tin chung

-         Tên khoa học: Melaleuca cajuputi Maton & Sm. ex R.Powell

-         Tên thường gọi: chè đồng, chè cay, tràm gió, tràm ta,…

-         Tên tiếng Anh: Tea tree

-         Tình trạng bảo tồn: LC theo thang đánh giá của IUCN.

-         Bảng phân loại khoa học

Giới (Regnum)

Thực vật (Plantae)

Ngành (Division)

Hạt kín (Magnoliophyta)

Lớp (Class)

Hai lá mầm (Magnoliopsida)

Bộ (Ordo)

Sim (Myrtales)

Họ (Familia)

Sim (Myrtaceae)

Chi (Genus)

Tràm (Melaleuca)

Loài (Species)

Tràm (Melaleuca cajuputi)

Tràm ta trong rừng của KDLST Hương Tràm

II. Nguồn gốc và phân bố

1.   Nguồn gốc tên gọi

Tên cajeput do chữ Malaixia của tên cây cajuputi hay kaiputi có nghĩa là gỗ trắng vì cây này có màu nhạt trông xa như một rừng màu trắng.

2.   Khu vực phân bố

-        Trên thế giới: tràm được trồng phổ biến trong vườn ở cả Australia và các khu vực nhiệt đới khác trên khắp thế giới.

-        Việt Nam: được trồng tập chung tại các tỉnh phía Nam . Các vùng nước ngập mặn rất phù hợp với sự phát triển của cây. Có thể kể đến những rừng tràm nổi tiếng như: Rừng tràm Trà Sư ở tỉnh An Giang, rừng tràm U Minh Hạ ở tỉnh Cà Mau, U Minh Thượng ở tỉnh Kiên Giang, vườn Quốc gia Tràm Chim ở tỉnh Đồng Tháp,…

III.                Đặc điểm

1.   Đặc điểm hình thái

-        Thân: là loại cây đại mộc, đa niên cao từ 20 – 25 m. Lớp vỏ bong ra thành từng mảng to dài, trắng, mềm xốp.

-        Lá: lá đơn, mọc cách, phiến lá dày, thon, màu xanh sẫm. Gân lá hình cung, không lông.

-        Hoa: thuộc dạng trùm ghé có màu trắng, trắng xanh hay trắng sữa. Dài từ 5 – 15 cm, chót tiếp tục mang lá. Đài và vành nhỏ, tiểu nhuỵ nhiều, trắng, dài 10 – 12 mm. Nhị đực nhiều, hợp thành 5 bó, chỉ nhị hình sợi, bao phấn hình gần như vuông, thò ra ngoài bao hoa. Một trục mang hoa không cọng, ra hoa vào mùa khô.

-        Quả: Quả nan hoá gỗ, nan trong đài hình tô đường kính 3 – 4 mm, không cuống, hình trụ, có 3 ngăn, mỗi ngăn chứa rất nhiều hạt và mày, hạt phát tán bằng cách chẻ ô.

Hoa, lá và trái tràm ta

IV.                 Công dụng

1.   Trong y học

1.1.        Trong y học hiện đại

Thành phần có công dụng chủ yếu là tinh dầu, flavonoid, tannin.

Tinh dầu (0,3- 0,6%) có thành phần chính là 1,8-cineol (còn gọi là eucalyptol, cajeputol) (45-60%). Ngoài ra còn có α-terpineol (terpinen-4-ol), β-caryophyllen, globulol, eugenol và các chất khác.

 Các flavonoid bao gồm các glycosid của myricetin và quercetin (myricitrin, myricetin 3-O-methyl 3’-β-D-xylopyranosid, quercetin 3-O-methyl 3’-β-D-xylopyranosid).

Tanin bao gồm dẫn xuất của acid gallic (acid 3,3’,4-tri-O-methylellagic).

1.2.        Trong y học cổ truyền

    Tính vị: cay chát, mùi thơm, tính ấm

    Quy kinh: tỳ, phế, có tác dụng hoạt huyết, khu phong, an thần, giảm đau, tiêu đờm, sát trùng, trị cảm cúm, nghẹt mũi, hỗ trợ tiêu hóa.

2.   Một số lĩnh vực khác

Nước ta trồng tràm chủ yếu lấy gỗ để làm cọc cho công trình xây dựng, làm củi hoặc đốt than. Ngoài ra phần lá còn được chưng cất để thu tinh dầu.

V. Nguồn tài liệu tham khảo

Đỗ Tất Lợi. (2004). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.

Mới hơn Cũ hơn

Mã QR cho bài viết này